HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG

Date: 09/02/2012Lượt xem: 127297

I. ĐỊNH NGHĨA

Cách đây gần 3000 năm, người xưa đã nhận thấy sự vật luôn có mâu thuẫn, nhưng thống nhất với nhau, không ngừng vận động, biến hoá để phát sinh, phát triển và tiêu vong, gọi là học thuyết âm dương.

II. CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN TRONG HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG

1. Âm dương đối lập với nhau:

Đối lập là sự mâu thuẫn, chế ước và đấu tranh giữa hai mặt âm dương. Thí dụ: ngày và đêm, nước và lửa, ức chế và hưng phấn.

2. Âm dương hỗ căn:

Hỗ căn là sự nương tựa lẫn nhau. Hai mặt âm dương tuy đối lập với nhau nhưng phải nương tựa vào nhau mới tồn tại được, mới có ý nghĩa. Cả hai mặt đều là quá trình phát triển tích cực của sự vật, không thể đơn độc phát sinh, phát triển được.

Thí dụ: có đồng hóa mới có dị hoá, hay ngược lại nếu không có dị hóa thì qúa trình đồng hoá không tiếp tục được. Có số âm mới có số dương. Hưng phấn và ức chế đều là quá trình tích cực của hoạt động vỏ não.

3. Âm dương tiêu trưởng:

Tiêu là sự mất đi, trưởng là sự phát triển, nói lên sự vận động không ngừng, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa hai mặt âm dương.

Như khí hậu bốn mùa trong năm luôn thay đổi từ lạnh sang nóng, từ nóng sang lạnh. Từ lạnh sang nóng là quá trình "âm tiêu dương trưởng", từ nóng sang lạnh là quá trình "dương tiêu âm " do đó có khí hậu mát, lạnh ấm và nóng.

Vận động của hai mặt âm dương có tính chất giai đoạn, tới mức độ nào đó sẽ chuyển hoá sang nhau gọi là "dương cực sinh âm, âm cực sinh dương, hàn cực sinh nhiệt, nhiệt cực sinh hàn" như trong quá trình phát triển của bệnh tật, bệnh thuộc phần dương (như sốt cao) có khi ảnh hưởng đến phần âm (như mất nước) hoặc bệnh ở phần âm (mất nước, mất điện giải), tới mức độ nào đó sẽ ảnh hưởng đến phần dương (như choáng, trụy mạch gọi là thoát dương).

4. Âm dương bình hành:

Hai mặt âm dương tuy đối lập, vận động không ngừng, nhưng luôn luôn lập lại được thế cân bằng, thế quân bình giữa hai mặt.

Sự mất thăng bằng giữa hai mặt âm dương biểu hiện cho sự phát sinh ra bệnh tật trong cơ thể.

Tóm lại 4 qui luật cơ bản của âm dương nói lên sự mâu thuẫn thống nhất, vận động và nương tựa lẫn nhau của vật chất.

Từ 4 quy luật trên, khi vận dụng vào y học người ta còn thấy một số phạm trù sau:

a) Sự tương đối và tuyệt đối của hai mặt âm dương:

- Sự đối lập giữa 2 mặt âm dương là tuyệt đối, nhưng trong điều kiện cụ thể nào đó nó có tính tương đối. Thí dụ: hàn thuộc âm đối lập với nhiệt thuộc dương, nhưng lương (là mát) thuộc âm đối lập với ôn (là ẩm) thuộc dương. Trên lâm sàng tuy sốt (là nhiệt) thuộc dương, nếu sốt cao thuộc lý dùng thuốc hàn sốt ít thuộc biểu dùng thuốc mát (lương).

b) Trong âm có dương và trong dương có âm:

Do âm dương cùng nương tựa với nhau cùng tồn tại, có khi xen kẽ vào nhau trong sự phát triển.

Như sự phân chia thời gian trong một ngày (24 giờ): ban ngày thuộc dương, từ 6 giờ sáng đến 12 giờ trưa là phân dương của dương. Từ 12 giờ đến 18 giờ là phân âm của dương; Ban đêm thuộc âm, từ 18 giờ đến 24 giờ là phân âm của âm, từ 0 đến 6 giờ là phần dương của âm.

Trên lâm sàng khi cho thuốc làm ra mồ hôi để hạ sốt, cần chú ý tránh cho ra nhiều mồ hôi gây mất nước, điện giải; về triệu chứng thấy xuất hiện các chứng hư thực, hàn nhiệt lẫn lộn; về cấu trúc của cơ thể, tạng thuộc âm như can, thận có can âm (can huyết), can dương (can khí), thận âm (thận thuỷ), thận dương (thận hoả) vv…

c) Bản chất và hiện tượng:

Thông thường bản chất thường phù hợp với hiện tượng, khi chữa bệnh người ta chữa vào bản chất của bệnh: như bệnh hàn dùng thuốc nhiệt, bệnh nhiệt dùng thuốc hàn.

Nhưng có lúc bản chất không phù hợp với hiện tượng gọi là sự ”thật giả” (chân giả) trên lâm sàng khi chẩn đoán phải xác định cho đúng bản chất để dùng thuốc chữa đúng nguyên nhân.

Thí dụ:  Bệnh nhiễm khuẩn gây sốt cao (chân nhiệt) do nhiễm độc gây trụy mạch ngoại biên làm tay chân lạnh, ra mồ hôi lạnh (giả hàn) phải dùng thuốc mát lạnh để chữa bệnh

Bệnh ỉa chảy do lạnh (chân hàn) do mất nước, mất điện giải gây nhiễm độc thần kinh làm co giật, sốt (giả nhiệt) phải dùng các thuốc nóng, ấm để chữa nguyên nhân.

Các quy luật âm dương và phạm trù của nó được biểu hiện bằng một hình tròn có hai hình cong chia diện tích làm hai phần bằng nhau: một phần là âm, một phần là dương. Trong phần âm có nhân dương và trong phần dương có nhân âm.

III. ỨNG DỤNG TRONG Y HỌC

1. Về cấu tạo cơ thể và sinh lý:

Âm: tạng, kinh âm, huyết, bụng, trong, dưới vv..

Dương: phủ, kinh dương, khí, lưng, ngoài vv..

Tạng thuộc âm, do tính chất trong âm có dương nên còn phân ra phế âm, phế khí, thận âm, thận dương: can huyết, can khí: tâm huyết, tâm khí: Phủ thuộc dương nhưng vì trong dương có âm nên có vị âm và vị hoả vv…

Vật chất dinh dương thuộc âm, cơ năng hoạt động thuộc dương.

2. Về quá trình phát sinh ra bệnh tật:

Bệnh tật phát sinh do sự mất thăng bằng về âm dương trong cơ thể được biểu hiện bằng sự thiên thắng hay thiên suy:

  • Thiên thắng: dương thắng gây chứng nhiệt: sốt, mạch nhanh, khát nước, táo, nước tiểu đỏ; âm thắng gây chứng hàn: người lạnh, chân tay lạnh, mạch trầm, ỉa lỏng, nước tiểu trong vv…
  • Thiên suy: dương hư như trong các trường hợp lão suy hội chứng hưng phấn thần kinh giảm.

 Trong quá trình phát triển của bệnh, tính chất của bệnh còn chuyển hóa lẫn nhau giữa hai mặt âm dương. Như bệnh ở phần dương ảnh hưởng tới phần âm (dương thắng tắc âm bệnh) như sốt cao kéo dài sẽ gây mất nước, bệnh ở phần âm ảnh hưởng tới phần dương (âm thắng tắc dương bệnh) như ỉa lỏng, nôn mửa kéo dài mất nước, điện giải làm nhiễm độc thần kinh gây sốt, co giật thậm chí gây trụy mạch (thoát dương).

Sự mất thăng bằng của âm dương gây ra các chứng bệnh ở vị trí khác nhau của cơ thể tuỳ theo vị trí đó ở phần âm hay dương. Như: dương thịnh sinh ngoại nhiệt: sốt, người và tay chân nóng, vì phần dương của cơ thể thuộc biểu, thuộc nhiệt; âm thịnh sinh nội hàn; ỉa chảy, người sợ lạnh, nước tiểu trong dài vì phần âm thuộc lý, thuộc hàn.

  • Âm hư sinh nội nhiệt: như mất nước, tân dịch giảm gây chứng khát nước, họng khô, táo, nước tiểu đỏ vv…
  • Dương hư sinh ngoại hàn: sợ lạnh, tay chân lạnh vì phần dương khí ở ngoại bị giảm sút.

3. Về chẩn đoán bệnh tật:

  • Dựa vào 4 phương pháp khám bệnh: Nhìn hoặc trông (vọng), nghe (văn) hỏi (vấn), xem mạch (thiết) để khai thác các triệu chứng thuộc hàn hay nhiệt, hư hay thực của các tạng phủ kinh lạc.
  • Dựa vào 8 cương lĩnh để đánh giá vị trí nông sâu của bệnh, tật, tính chất của bệnh, trạng thái người bệnh và xu thế chung nhất của bệnh (biểu ly, hư thực, hàn nhiệt và âm dương) trong đó âm và dương là hai cương lĩnh tổng quát nhất gọi là tổng cương: thường bệnh ở biểu thực, nhiệt thuộc dương; bệnh ở lý, hàn, hư thuộc âm.
  • Dựa vào tứ chẩn để khai thác triệu chứng và căn cứ vào bát cương, bệnh tật được quy thành hội chứng thiên thắng hay thiên suy về âm dương của các tạng phủ, kinh lạc vv…

4. Về chữa bệnh và các phương pháp chữa bệnh:

a) Chữa bệnh:

Là sự điều hoà lại sự mất thăng bằng về âm dương của cơ thể tuỳ theo tình trạng hư thực, hàn nhiệt của bệnh bằng các phương pháp khác nhau: thuốc, châm cứu, xoa bóp, khí công vv…

b) Về thuốc được chia làm 2 loại:

  • Thuốc lạnh, mát, (hàn, lương) thuộc âm để chữa bệnh nhiệt thuộc dương. 
  • Thuốc nóng, ấm (nhiệt, ôn) thuộc dương, để chữa bệnh hàn thuộc âm.

 c) Châm cứu:

  • Bệnh nhiệt dùng châm, bệnh hàn dùng cứu; bệnh hư thì bổ, bệnh thực thì tả.
  • Bệnh thuộc tạng (thuộc âm) thì dùng các du huyệt sau lưng (thuộc dương), bệnh thuộc phủ (thuộc dương) thì dùng các mộ huyệt ở ngực, bụng (thuộc âm), theo nguyên tắc: “Theo dương dẫn âm, theo âm dẫn dương”.

                                                                                                                                                                                                                    

Tin liên quan:

Học thuyết tạng tượng ( Phần 2)

Lý Thời Trân
Lý Thời Trân, tự Đông Bích, về già tự hiệu là Tần Hồ sơn nhân, người đời Minh, Kỳ Châu (nay là Hồ Bắc, Kỳ Xuân, Kỳ Châu).  Ông là nhà y dược học vĩ đại của...
Xem thêm
TUỆ TĨNH
Tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh, hiệu Huệ Tĩnh, sau này khi đi tu, lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh. Quê làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thai, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng,...
Xem thêm
HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG
Hải Thượng Lãn Ông tên húy là Lê Hữu Trác tên thường là Lê Hữu Chẩn, là một đại y tôn của nước ta. Sinh ngày 12/11/1724 năm Giáp Thìn về cuối đời Hậu Lê, ở...
Xem thêm
Trương Trọng Cảnh
Tên là Cơ, người đời Đông Hán, quận Nam Dương (nay là Hà Nam, Nam Dương). Ông là tác giả quyển ‘Thương Hàn Tạp Bệnh Luận’, một quyển sách y học rất có giá trị...
Xem thêm
Hoa Đà
Hoa Đà, tự Nguyên Hóa, lại có tên Phu, sống vào thời Tam Quốc. Ông là người nước Bái (nay là tỉnh An Huy, Trung Quốc). Ông thông y thuật toàn diện, giỏi ngoại...
Xem thêm
Copyright © 2016 Vatm.edu.vn